Thủ tục thành lập công ty đại chúng như thế nào? Mô hình quản trị và quản lý cổ đông của công ty đại chúng ra sao? Bài viết sau đây đội ngũ Luật sư của công ty Luật VN chúng tôi xin cung cấp đến cho quý khách hàng nội dung đầy đủ nhất. Mời bạn theo dõi!
Nếu quý khách hàng có câu hỏi vui lòng liên hệ với Luật VN qua số hotline/zalo: 076 338 7788. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc cho quý khách miễn phí.
Mục lục
- 1 I. Thủ tục nộp hồ sơ thành lập công ty đại chúng:
- 2 II. Mô hình quả trị khi thành lập công ty đại chúng:
- 2.1 Quản trị doanh nghiệp ở các nước phát triển
- 2.1.1 1. Pháp luật công ty xác định cơ cấu quyền lực trong công ty.
- 2.1.2 2. Quản trị công ty (quản trị) hoặc quản trị kinh doanh
- 2.1.3 Trong quá trình phát triển, quản trị doanh nghiệp có bốn cấp độ:
- 2.1.4 3. Quản trị doanh nghiệp:
- 2.1.5 Luật công ty của mỗi quốc gia sẽ làm cho các chi tiết cụ thể của “quản trị công ty” khác nhau; nhưng tất cả đều có xu hướng là một tập hợp các tiêu chuẩn chung dựa trên các nguyên tắc chung sau:
- 2.2 Tình hình ở Việt Nam
- 2.2.1 Khi các công ty tư nhân được thành lập, các chủ sở hữu theo dòng của các doanh nghiệp nhà nước đã thêm sáng kiến của riêng họ; nhưng cũng không nhận ra trình độ quản lý của họ là thuận tiện.
- 2.2.2 Mặc dù vẫn còn thiếu cơ sở quản lý khoa học, nhưng do nhu cầu hội nhập, và sau đó là các khuyến nghị của các chuyên gia nước ngoài; Năm 2002, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch đã kết hợp các quy định về quản trị công ty vào điều lệ mẫu cho các công ty niêm yết. Chúng không được đặt tên rõ ràng.
- 2.2.3 Khi chạy, xe phải di chuyển dưới sự điều khiển của người lái (đó là quản lý và vận hành) nhưng nó có thể bị hỏng giữa đường (do quản lý). Quản trị doanh nghiệp đòi hỏi xe phải chạy với tốc độ, cách thay đổi người lái, nhưng nó không khởi động động cơ (vì quản lý). Khi sử dụng “quản trị doanh nghiệp” để dịch cho “quản trị doanh nghiệp”, chúng tôi đã loại bỏ “quản trị”; Mà chúng ta vẫn còn yếu!
- 2.1 Quản trị doanh nghiệp ở các nước phát triển
- 3 III. Quản lý cổ đông khi thành lập công ty đại chúng:
I. Thủ tục nộp hồ sơ thành lập công ty đại chúng:
1. Đối tượng phải nộp hồ sơ đại chúng
Theo quy định hiện hành, căn cứ điều 25 Luật Chứng khoán 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau:
- Thứ nhất, công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng;
- Thứ hai, Công ty có cổ phiếu niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán hoặc Trung tâm Giao dịch Chứng khoán;
- Thứ ba, Công ty có cổ phần thuộc sở hữu của ít nhất một trăm nhà đầu tư, không bao gồm các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và đã góp vốn điều lệ từ mười tỷ đồng trở lên.
2. Thời hạn nộp hồ sơ:
- Trong trường hợp công ty của bạn được yêu cầu nộp đơn xin công khai, trong vòng chín mươi ngày kể từ ngày trở thành công ty đại chúng, công ty của bạn phải nộp hồ sơ công ty đại chúng.
3. Cơ quan tiếp nhận hồ sơ:
- Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
4. Thành phần hồ sơ:
Hồ sơ công ty đại chúng bao gồm:
5. Trình tự, thủ tục:
II. Mô hình quả trị khi thành lập công ty đại chúng:
Quản trị doanh nghiệp ở các nước phát triển
1. Pháp luật công ty xác định cơ cấu quyền lực trong công ty.
- Đó là trách nhiệm và thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc và ban kiểm soát. Dựa trên đó, các công ty tạo nên điều lệ của họ.
2. Quản trị công ty (quản trị) hoặc quản trị kinh doanh
- là việc phân công tổ chức chi tiết của công ty (bộ phận), các vị trí nhân sự khác nhau cho người lao động; mối quan hệ công việc giữa các phòng ban và người lao động để thực hiện các quyết định của trung tâm quyền lực. Quản trị công ty bao gồm: lập kế hoạch, tổ chức, tìm nguồn cung ứng, lãnh đạo, chỉ huy và kiểm soát công ty. Tìm nguồn cung ứng tài nguyên bao gồm vị trí và kiểm soát nguồn nhân lực, tài chính, kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên.
Trong quá trình phát triển, quản trị doanh nghiệp có bốn cấp độ:
- Tiện lợi: từ khi doanh nghiệp đầu tiên xuất hiện đến nay;
- Khoa học: bắt đầu vào khoảng năm 1910 trở đi và hoàn thành vào cuối những năm 1960. Nó có thể ở lại theo cách đó hoặc đi lên một cấp độ cao hơn;
- Nâng cao: từ năm 1987 đến nay, thường được gọi là ISO, hoặc quản lý chất lượng;
- Hiện đại: bắt đầu vào năm 1990 đến nay.
- Các cấp độ này sống cùng nhau tùy thuộc vào việc sử dụng doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp có hàng trăm, hàng nghìn lao động không thể áp dụng thuận tiện mà phải khoa học và cao hơn.
3. Quản trị doanh nghiệp:
- Mới từ khoảng năm 1985 đến nay. Đây là quy trình hoặc quy trình giám sát, kiểm soát được thực hiện để đảm bảo thực hiện quản trị công ty phù hợp với lợi ích của cổ đông.
Luật công ty của mỗi quốc gia sẽ làm cho các chi tiết cụ thể của “quản trị công ty” khác nhau; nhưng tất cả đều có xu hướng là một tập hợp các tiêu chuẩn chung dựa trên các nguyên tắc chung sau:
- Sự độc lập của các thành viên hội đồng quản trị và sự giám sát hiệu quả của họ;
- Chịu trách nhiệm trước cổ đông;
- Minh bạch và công khai thông tin; và
- Bảo vệ quyền lợi của cổ đông nắm giữ vốn nhỏ.
Tình hình ở Việt Nam
Khi các công ty tư nhân được thành lập, các chủ sở hữu theo dòng của các doanh nghiệp nhà nước đã thêm sáng kiến của riêng họ; nhưng cũng không nhận ra trình độ quản lý của họ là thuận tiện.
Mặc dù vẫn còn thiếu cơ sở quản lý khoa học, nhưng do nhu cầu hội nhập, và sau đó là các khuyến nghị của các chuyên gia nước ngoài; Năm 2002, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch đã kết hợp các quy định về quản trị công ty vào điều lệ mẫu cho các công ty niêm yết. Chúng không được đặt tên rõ ràng.
Khi chạy, xe phải di chuyển dưới sự điều khiển của người lái (đó là quản lý và vận hành) nhưng nó có thể bị hỏng giữa đường (do quản lý). Quản trị doanh nghiệp đòi hỏi xe phải chạy với tốc độ, cách thay đổi người lái, nhưng nó không khởi động động cơ (vì quản lý). Khi sử dụng “quản trị doanh nghiệp” để dịch cho “quản trị doanh nghiệp”, chúng tôi đã loại bỏ “quản trị”; Mà chúng ta vẫn còn yếu!
III. Quản lý cổ đông khi thành lập công ty đại chúng:
Đối với các công ty không phải là công ty đại chúng, chiến lược phát triển thường chỉ xem xét các yếu tố kinh doanh, tức là thương hiệu, vị trí, năng lực, đối thủ cạnh tranh, triển vọng ngành, v.v. Công ty này có gần như một chủ sở hữu duy nhất, vì vậy mọi thứ có thể được quyết định dễ dàng. Tuy nhiên, đối với các công ty đại chúng, đặc biệt là các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, tỷ lệ sở hữu trong công ty và triển vọng của công ty sẽ quyết định lợi ích và động lực của ba đối tác. về chiến lược phát triển của công ty.
Hội đồng quản trị bao gồm những người trong Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban điều hành. Họ là những người lái xe và điều hành công ty, nhưng trong các công ty niêm yết, đặc biệt là những công ty có tính công khai cao, tỷ lệ sở hữu của họ thường không quá lớn. Các cổ đông hiện tại là những nhà tài trợ trong quá khứ của công ty. Các nhà đầu tư là những người sẵn sàng hoặc không sẵn sàng đầu tư nhiều vốn hơn vào công ty. Sự hài hòa giữa động lực và lợi ích của ba đối tác này có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của một công ty đại chúng.
Quản lý có rất ít quyền sở hữu – e ngại về động lực tăng trưởng.
Khi ban lãnh đạo sở hữu ít cổ phần, họ thường ít có động lực để phát triển công ty, vì nghĩ đến việc làm “để người khác hưởng thụ”. Điều này xảy ra ở nhiều công ty niêm yết có nguồn gốc từ các công ty nhà nước. Nhiều công ty có tiềm năng nhưng lợi nhuận không tăng nhiều, tỷ lệ P/E (tỷ lệ giá trên thu nhập của một cổ phiếu) thấp hơn nhiều so với mức trung bình của ngành (phản ánh giá thấp hơn). . Thông thường, ban lãnh đạo chỉ có động lực duy trì tỷ lệ cổ tức nhất định (khoảng 10-20%) đối với cổ đông.
Không muốn phát triển vì sợ mất kiểm soát
Ở nhiều doanh nghiệp có những dự án tiềm năng như bất động sản, thủy điện,… việc huy động vốn mới cho các công ty này không khó, nhưng ban lãnh đạo không làm vì sợ. giảm tỷ lệ sở hữu, dẫn đến giảm quyền kiểm soát trong công ty. Do đó, họ cố gắng vay càng nhiều càng tốt. Điều này gây tổn hại đến lợi ích của các cổ đông khác trong công ty.
Xung đột giữa cổ đông cũ và cổ đông mới.
Một ví dụ điển hình về mâu thuẫn giữa cổ đông cũ và mới có lẽ là trường hợp của Indochina Capital Vietnam Fund (ICV), một câu chuyện nổi lên vào cuối năm 2008, khi các cổ đông của quỹ bán hết cổ phiếu của họ với giá cao. chỉ có 30-50% NAV của quỹ (giá trị tài sản ròng), một số cổ đông mới là các quỹ phòng hộ đã nhảy vào mua. Sau đó, họ muốn thanh lý quỹ để kiếm lợi nhuận. Điều này khiến ICV mất ổn định trong gần một năm qua, khiến ICV phải thay đổi ban lãnh đạo quỹ 3 lần nhưng vẫn không thể “làm hài lòng” nhóm cổ đông cũ và mới.
Phát hành giá cổ phiếu.
Phát hành thêm cổ phiếu để có thêm vốn kinh doanh thường là vấn đề sống còn của các công ty niêm yết. Nhưng với mức giá nào là hợp lý và cho ai (cổ đông hiện tại hoặc nhà đầu tư mới)? Thông thường, ban lãnh đạo muốn phát hành phí bảo hiểm để có được nhiều tiền mà không phải chịu áp lực của EPS (thu nhập trên mỗi cổ phiếu) khi cổ phiếu bị “pha loãng”.
Tuy nhiên, các cổ đông lớn có thể không muốn phát hành cổ phiếu giá cao vì nó phụ thuộc vào việc họ có phải chi tiền để mua thêm hay không. Và các cổ đông bán lẻ chỉ muốn mua với giá thấp là có thể cảm thấy “có lãi”. Mức giá hợp lý trong phương án phát hành, dù là cổ đông hiện hữu hay nhà đầu tư mới, là mức giá hài hòa lợi ích của các bên.
Cổ tức bằng tiền mặt hay cổ phiếu?
Mặc dù có một số ban quản trị không muốn phát hành nhiều cổ phiếu do áp lực EPS, nhưng đối với một số doanh nghiệp trong ngành thép, bất động sản…, họ cần tăng vốn điều lệ để được ngân hàng xem xét cho vay thêm để có thêm tiền. vốn lưu động bổ sung. Vào thời điểm đó, ban lãnh đạo muốn trả cổ tức bằng cổ phiếu, thậm chí là cổ phiếu thưởng. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều cổ đông và nhà đầu tư đang “dị ứng” với cổ tức cổ phiếu vì sợ “pha loãng”. Điều này có thể dẫn đến xung đột trong đại hội đồng cổ đông để thông qua điều này.
Cơ cấu cổ đông và giá cổ phiếu.
Không chỉ kết quả kinh doanh của công ty mà cơ cấu cổ đông cũng ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Các cổ phiếu lớn có mức tăng giá tốt chủ yếu là các cổ phiếu có độ công khai cao, số lượng cổ đông lên tới hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn cổ phiếu như ACB, STB, SSI, ITA…
Hiện nay, khi nhiều cổ đông trong các công ty cũng là nhà đầu tư tài chính, họ tìm cách kinh doanh ngắn hạn trên sàn, đôi khi gây ra xung đột giữa các cổ đông. Hoặc một nhóm cổ đông lớn có thể tác động đến ban lãnh đạo về cách phân bổ lợi nhuận giữa các quý, khi nào công bố thông tin… theo cách thuận lợi cho việc mua hàng của họ. Điều này có thể dẫn đến xung đột với lợi ích của các cổ đông và nhà đầu tư khác.
Làm thế nào để hài hòa và phát triển?
Nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được sự phức tạp của vấn đề chiến lược phát triển với sự hài hòa động lực và lợi ích của các bên như đã nêu. Khi đó, ban lãnh đạo hoặc cổ đông lớn có thể cần một công ty tư vấn có kinh nghiệm để tư vấn về các vấn đề hài hòa lợi ích của các bên. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của một công ty đại chúng hoặc một công ty niêm yết.
Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về những kinh nghiệm khi quý khách hàng muốn tìm hiểu về Thành lập công ty đại chúng . Nếu quý khách hàng có câu hỏi vui lòng liên hệ với Luatvn.vn qua số hotline/zalo: 076 338 7788.
BÀI VIẾT LIÊN QUAN